Đóng

Pierre-Nicolas Tourgueneff

Pierre-Nicolas Tourgueneff (1853-1912) là một nhà điêu khắc và họa sĩ động vật người Pháp, hoạt động nghệ thuật vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Ông là anh em họ của nhà văn Ivan Sergeyevich Turgenev. Ông bắt đầu triển lãm các tác phẩm điêu khắc của mình tại Salon từ năm 1880.

Tourgueneff sinh ngày 4 tháng 4 năm 1853 trong một gia đình gốc Nga, là con thứ tư và là con trai thứ hai của Nicolas Turgenev (1789-1871) và vợ Clara Viaris, người đến từ Lesegno. Cha của ông, trong nỗ lực tránh cuộc đàn áp chính trị và tôn giáo ở Nga, đã di cư cùng gia đình đến Pháp. Anh cả Turgenev đã bị Nicholas I kết án tử hình vắng mặt vì đã tham gia vào cuộc nổi dậy Decembrist.

Tourgueneff là sinh viên của nhà điêu khắc động vật nổi tiếng người Pháp Emmanuel Frémiet. Giống như thầy dạy của mình, ông có thể được xem như là một nhà điêu khắc động vật vì các tác phẩm động vật của ông và mối liên hệ của ông với Frémiet. Tuy nhiên, ông cũng có những tác phẩm chủ đề người (cưỡi ngựa), chủ yếu mô tả quân đội của thời Đế chế thứ nhất. Ông sống trong một biệt thự được thừa hưởng từ cha mẹ tại 97 rue de Lille ở Paris và cũng có xưởng (studio) ở château Vert-Bois, thị trấn Rueil-Malmaison

Nhiều tác phẩm của ông được đúc bằng đồng tại xưởng đúc Susse Frères ở Paris. Một số tác phẩm này, đặc biệt là một số tượng nhỏ, được trưng bày bằng đồng tại Salon nơi ông bắt đầu tham gia thường xuyên vào năm 1880. Đây là trường hợp với ‘Loys, comte de Nassau’, một bức tượng cưỡi ngựa (1884), ‘Veneur a cheval du XIVe siècle ‘(1885),’ Le Patron ‘(1886),’ Francarcher do XVe siècle ‘(1887),’ Etalon percheron ‘(1890),’ Gardeuse d’oies ‘(1891),’ Madame X. a cheval ‘ (1893), ‘Red Lancer’ (1895), ‘Cavalier de 1806’ (1899), ‘Le Vieux’, nhóm cưỡi ngựa và ‘Temeraire III, pur-sang’ (1903), ‘Pierre-le-Grand a cheval’ (1906), ‘Jument pouliniere pur-sang’ (1907), ‘Mademoiselle V. Nimidoff, de l’Opera’ (1908) và ‘Alexandre III de Russie,’ một bức tượng cưỡi ngựa cho bảo tàng Saint Petersburg (1910).

Những tác phẩm là thạch cao bao gồm ‘Visapour, etalon russe,’ 20 x 90 cm (1880), ‘Yermak, conquate de la Siberie en 1583’, một bức tượng cưỡi ngựa (1884), ‘Pasteur dans la steppe, ‘một bức tượng cưỡi ngựa (1886),’ Halage ‘(1887),’ Fille d’Eve ‘(1888),’ En grand’garde ‘(1890),’ La Charge ‘(1892),’ Chevaux de lab ‘(1896) ), ‘Grenadier de la gardene consulaire’ và ‘Chasseur d’

Tourgueneff cũng được bổ nhiệm làm Hiệp sĩ danh dự.

Tourgueneff qua đời vào ngày 21 tháng 3 năm 1912 tại Paris, Pháp. Ông được nhớ đến như một nhà điêu khắc động vật quan trọng của Pháp. Trong suốt cuộc đời, ông đã nhận được chuyến thăm của các nhà văn, họa sĩ, họa sĩ và nhà thiết kế như Jean-Louis Forain, Roger Joseph Jourdain, Ernest Ange Duez và nhà báo Gaul Miguel Zamacois.

 

Một số tác phẩm của ông hiện được trưng bày:

Ở Pháp

Nîmes, jardins de la Fontaine: Charles Jalabert, 1904, buste en bronze

Musée des beaux-Arts de Nîmes: Charles Jalabert, 1904, buste en bronze

Paris, Musée de l’Armée (Paris)

Paris, musée d’Orsay: Chevaux de Halage, 1903, đồng. Le plâtre a été exposé au Salon des artistes français de 1887

Ở Nga

Saint Petersburg, Palais de Marename: Alexander III của Nga, 1910, tượng équestre en bronze

Xưởng đúc Susse Frères, vào đầu thế kỷ 20, đã xuất bản một danh mục liệt kê 23 tác phẩm của ông, như sau:

Medieval Archer, 73 cm. and 37 cm.

Chasseur en vedette, 38 cm.

Cheval Cob, 23 cm.

Cheval demi-sang, 48 cm.

Cheval au dressage, 31 cm.

Cheval Norfolk, 32 cm.

Cheval de selle, 31 cm.

Chien barbet assis (Scottish Terrier), 16 cm.

Chiens bassets, group, 12 cm.

Chien a l’escargot, 6 cm.

Chien griffon basset (a la piste), 11 cm.

Chien de police, 19 cm. and 10 cm.

Tete de chien, 23 cm. and 6 cm.

Tete de chien, seal, 7 cm.

Cuitrassier a la charge, 46 cm., 19 cm. and 12 cm.

Dragon en vedette, 40 cm.

Grenadier de la garde, 62 cm.

Hussard 1806, 61 cm.

Jument Theresa, 17 cm.

Groupe de deux juments, 41 cm.

Pouliniere, 28 cm.

Retour de labour, 50 cm.

Tổng hợp: Trâm Anh Art
(Nguồn: Kjellberg, Pierre, 1994; Rueil Malmaison, 2010)