Tượng hai hiệp sĩ chiến đấu được biết đến với cái tên: “La Mort de Minseigneur le Duc de Clarence” (Cái chết của Công tước Clarence) hay “Combat of the Duke of Clarence and the Dauphin’s Champion” (Cuộc chiến đấu giữa Công tước Clarence và Nhà vô địch của Dauphin)
Bức tượng mô tả khái quát hình ảnh trận đánh Bauge (1421) trong cuộc chiến trăm năm giữa nước Anh và nước Pháp.
Tượng dược thực hiện vào năm 1838 bởi Alfred de Nieuwerkerke, (1811-1892), một nhà điêu khắc người Pháp gốc Hà Lan (ông cũng có thời gian giữ chức bộ trưởng văn hoá Pháp). Bức tượng là ví dụ điển hình của phong cách điêu khắc “Troubadour” phát triển từ đầu thế kỷ 19 và thịnh hành cho đến cách mạng Pháp 1848.
Bá tước Alfred Émilien O’Hara van Nieuwerkerke (16 tháng 4 năm 1811 – 16 tháng 1 năm 1892) là một nhà điêu khắc người Pháp gốc Hà Lan.
Năm 1834, trong sáu tháng ở Ý, ông phát hiện ra niềm say mê các tác phẩm điêu khắc cổ xưa. Ông cũng bị mê hoặc bởi tác phẩm của nhà điêu khắc nổi tiếng Félicie de Chauveau, người mà ông gặp ở Florence, và do đó ông quyết định trở thành một nhà điêu khắc khi trở về Pháp. Ông tham gia các lớp học trong xưởng vẽ của Pradier và nam tước Carlo Marochetti và thử sức với một bức tượng của người anh em họ Horace de Viel-Castel, người trở thành giám tuyển của “Musée des Souverains” tại Louvre vào tháng 2 năm 1853 và là người ghi chép của triều đình. Ông cảm thấy điêu khắc thật sự phù hợp với ông ở sự làm việc độc lập và tự do sáng tạo.
Ông bắt đầu trưng bày tại Salon Paris từ năm 1842 với bức tượng bán thân bằng đá cẩm thạch của Charles de Ganay. Tác phẩm “bức tượng Napoleon I”, cưỡi ngựa, cao 4,65m, của ông, được khánh thành vào ngày 20 tháng 9 năm 1852 trên quảng trường lớn nhất ở bán đảo Perrache (nay là Carnot), Lyon. Tuy nhiên nó đã bị phá hủy trong khoảng thời gian từ tháng 11 năm 1870 đến tháng 2 năm 1871. Bản sao duy nhất còn sót lại của nó (khánh thành vào ngày 20 tháng 8 năm 1854) tại trung tâm của Napoléon ở La Roche-Sur-Yon.
Một trong những tác phẩm nổi tiếng khác của ông là “Cái chết của Duke Clarence”, các bản sao bằng đồng được đúc bởi xưởng đúc Susse từ năm 1839 đến 1875 – một bản sao được đưa vào bộ sưu tập của hoàng gia Anh tại Nhà Ostern năm 1901 và một bản khác đã được bán tại cuộc đấu giá công khai tại Chartres vào ngày 23 tháng 3 năm 2003.
Ông được bổ nhiệm làm giám đốc Louvre vào ngày 25 tháng 12 năm 1849.
Ông ủng hộ cuộc đảo chính vào ngày 2 tháng 12 năm 1851. Trở thành thành viên của Académie des Beaux-Arts vào ngày 19 tháng 11 năm 1853. Vào ngày 5 tháng 7 năm 1853, ông trở thành cố vấn Nghệ thuật của Hoàng đế và phụ trách bảo tàng Hoàng gia.
Cho đến khi Đế quốc Pháp thứ hai sụp đổ, ông đóng vai trò là một bộ trưởng các vấn đề văn hóa. Theo yêu cầu của ông, họa sĩ William Wyld (sinh ra ở Anh nhưng cư trú tại Paris) đã được phép triển lãm trong phần tiếng Pháp của Triển lãm Đại học 1855 (lần thứ hai sau đó tại London vào năm 1851). Ông phụ trách quản lý bốn bảo tàng Louvre, Luxembourg, Véailles và Saint-Germain-en-Laye)
Tổng hợp: Trâm Anh Art
(Nguồn: Europeana; Paolo Rinaldi, 1998; Suzanne Gaynor, 1985)
5/5 - (5 bình chọn)
Kích thước:
. Chiều cao: 75,5 cm . Chiều rộng: 80 cm . Chiều sâu: 28 cm
Tượng hai hiệp sĩ chiến đấu được biết đến với cái tên: “La Mort de Minseigneur le Duc de Clarence” (Cái chết của Công tước Clarence) hay “Combat of the Duke of Clarence and the Dauphin’s Champion” (Cuộc chiến đấu giữa Công tước Clarence và Nhà vô địch của Dauphin)
Bức tượng mô tả khái quát hình ảnh trận đánh Bauge (1421) trong cuộc chiến trăm năm giữa nước Anh và nước Pháp.
Tượng dược thực hiện vào năm 1838 bởi Alfred de Nieuwerkerke, (1811-1892), một nhà điêu khắc người Pháp gốc Hà Lan (ông cũng có thời gian giữ chức bộ trưởng văn hoá Pháp). Bức tượng là ví dụ điển hình của phong cách điêu khắc “Troubadour” phát triển từ đầu thế kỷ 19 và thịnh hành cho đến cách mạng Pháp 1848.
Bá tước Alfred Émilien O’Hara van Nieuwerkerke (16 tháng 4 năm 1811 – 16 tháng 1 năm 1892) là một nhà điêu khắc người Pháp gốc Hà Lan.
Năm 1834, trong sáu tháng ở Ý, ông phát hiện ra niềm say mê các tác phẩm điêu khắc cổ xưa. Ông cũng bị mê hoặc bởi tác phẩm của nhà điêu khắc nổi tiếng Félicie de Chauveau, người mà ông gặp ở Florence, và do đó ông quyết định trở thành một nhà điêu khắc khi trở về Pháp. Ông tham gia các lớp học trong xưởng vẽ của Pradier và nam tước Carlo Marochetti và thử sức với một bức tượng của người anh em họ Horace de Viel-Castel, người trở thành giám tuyển của “Musée des Souverains” tại Louvre vào tháng 2 năm 1853 và là người ghi chép của triều đình. Ông cảm thấy điêu khắc thật sự phù hợp với ông ở sự làm việc độc lập và tự do sáng tạo.
Ông bắt đầu trưng bày tại Salon Paris từ năm 1842 với bức tượng bán thân bằng đá cẩm thạch của Charles de Ganay. Tác phẩm “bức tượng Napoleon I”, cưỡi ngựa, cao 4,65m, của ông, được khánh thành vào ngày 20 tháng 9 năm 1852 trên quảng trường lớn nhất ở bán đảo Perrache (nay là Carnot), Lyon. Tuy nhiên nó đã bị phá hủy trong khoảng thời gian từ tháng 11 năm 1870 đến tháng 2 năm 1871. Bản sao duy nhất còn sót lại của nó (khánh thành vào ngày 20 tháng 8 năm 1854) tại trung tâm của Napoléon ở La Roche-Sur-Yon.
Một trong những tác phẩm nổi tiếng khác của ông là “Cái chết của Duke Clarence”, các bản sao bằng đồng được đúc bởi xưởng đúc Susse từ năm 1839 đến 1875 – một bản sao được đưa vào bộ sưu tập của hoàng gia Anh tại Nhà Ostern năm 1901 và một bản khác đã được bán tại cuộc đấu giá công khai tại Chartres vào ngày 23 tháng 3 năm 2003.
Ông được bổ nhiệm làm giám đốc Louvre vào ngày 25 tháng 12 năm 1849.
Ông ủng hộ cuộc đảo chính vào ngày 2 tháng 12 năm 1851. Trở thành thành viên của Académie des Beaux-Arts vào ngày 19 tháng 11 năm 1853. Vào ngày 5 tháng 7 năm 1853, ông trở thành cố vấn Nghệ thuật của Hoàng đế và phụ trách bảo tàng Hoàng gia.
Cho đến khi Đế quốc Pháp thứ hai sụp đổ, ông đóng vai trò là một bộ trưởng các vấn đề văn hóa. Theo yêu cầu của ông, họa sĩ William Wyld (sinh ra ở Anh nhưng cư trú tại Paris) đã được phép triển lãm trong phần tiếng Pháp của Triển lãm Đại học 1855 (lần thứ hai sau đó tại London vào năm 1851). Ông phụ trách quản lý bốn bảo tàng Louvre, Luxembourg, Véailles và Saint-Germain-en-Laye)
Tổng hợp: Trâm Anh Art
(Nguồn: Europeana; Paolo Rinaldi, 1998; Suzanne Gaynor, 1985)