Townley Discobolus là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Myron of Eleutherae (tiếng Hy Lạp cổ đại: ΜύρωΜύρω), (Khoảng 480-440 trước Công nguyên), một nhà điêu khắc người Athens từ giữa Thế kỷ thứ V trước Công Nguyên. Ông được sinh ra ở Eleutherae trên biên giới của Boeotia và Attica. Theo Lịch sử tự nhiên của Pliny, Ageladas of Argos là giáo viên của ông.
Discobolus Palombara (hoặc Lancellotti), bản sao đầu tiên của tác phẩm điêu khắc nổi tiếng này đã được phát hiện và tìm thấy vào năm 1781, tại Villa Palombara trên đồi Esquiline, của gia đình Massimo. Đây là bản sao từ Thế kỷ thứ nhất của tác phẩm điêu khắc bằng đồng nguyên bản của Myron. Ban đầu nó được Giuseppe Angelini khôi phục và Masimo đã đặt nó trong Palazzo Massimo alle Colonne và sau đó tại Palazzo Lancellotti. Nhà khảo cổ học người Ý, ông Jac Battista Visconti đã xác định tác phẩm điêu khắc là bản sao từ bản gốc của Myron. Nó ngay lập tức nổi tiếng, mặc dù Massimo chống lại việc tự do tiếp cận tác phẩm.
Năm 1937, Adolf Hitler của nước Đức Quốc xã đã thương lượng để mua nó, và cuối cùng đã thành công vào năm 1938, khi Galeazzo Ciano, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, đại diện chính phủ Ý chấp thuận bán nó cho ông ta với giá năm triệu lire, bất chấp sự phản đối của Giuseppe Bottai, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và cộng đồng học giả nước Ý. Bức tượng được vận chuyển bằng đường sắt đến Munich – nước Đức và được trưng bày trong Glyptothek. Sau Thế chiến II bức tượng đã được trả lại cho nước Ý vào năm 1948. Hiện tác phẩm đang được lưu giữ ở bảo tàng Quốc gia Rome và được trưng bày tại Cung điện Massimo.
Sau khi phát hiện ra Discobolus Palombara, một Discobolus đáng chú ý thứ hai (Townley Discobolus) đã được khai quật tại Biệt thự Hadrian năm 1790, và được mua bởi nhà buôn cổ vật và nghệ thuật người Anh kinh doanh ở Rome, Thomas Jenkins, tại cuộc đấu giá công khai năm 1792. Sau đó, một chuyên gia về đồ cổ người Anh, Charles Townley, đã trả cho Jenkins 400 Bảng Anh để sở hữu bức tượng. Nó đã được đưa đến phòng trưng bày được Townley ủy nhiệm ở Park Street, London, vào năm 1794. (Mặc dù có thể đầu của bức tượng được phục hồi sai, như Richard Payne Knight đã sớm chỉ ra, nhưng Townley đã bị thuyết phục rằng đây là bản sao gốc). Bức tượng sau đó được mua cho Bảo tàng Anh, vào tháng 7 năm 1805.
Một bản sao khác đã được phát hiện vào năm 1906 trong tàn tích của một biệt thự La Mã tại Tor Paterno trong khu đất cũ của hoàng gia Castel Porziano, hiện cũng được bảo tồn trong Bảo tàng Nazionale Romano.
Trong thế kỷ 19, các bản sao của Discobolos có thể được tìm thấy trong nhiều bộ sưu tập học thuật lớn và hiện nay hầu hết đều bị phân tán và thất lạc.
Myron hầu như chỉ điêu khắc với vật liệu đồng và sự nổi tiếng của ông chủ yếu dựa trên các bức tượng về vận động viên, bao gồm cả Discobolus (người ném đĩa). Trong đó ông đã thực hiện một cuộc cách mạng trong điêu khắc bằng cách giới thiệu những tư thế táo bạo với nhịp điệu hoàn hảo cùng những tỷ lệ chính xác và đạt đến mức cao nhất về sự chân thực
Các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, theo Lịch sử tự nhiên của Pliny (34.57-59), là tượng bò cái, chó (canem, Cerberus), Perseus, Satyr, Marsyas, người thổi sáo, Minerva (Athena), Hercules (đã được đặt ở đền thờ dành riêng cho Đại đế Pompey tại Circus Maximus), Discobolus (người ném đĩa) và Apollo. Các nhà văn La Mã thời kỳ đầu luôn đánh giá Myron là một trong những nhà điêu khắc vĩ đại nhất của Hy Lạp.
Các nhà phê bình cổ đại nói về Myron rằng, ông đã thành công một cách đáng ngưỡng mộ trong việc mang lại sự sống và chuyển động cho các nhân vật của mình. Ở tượng Discobolus khuôn mặt của vận động viên ném đĩa bình tĩnh và thư thái nhưng tất cả các cơ bắp của cơ thể anh ta tập trung trong một nỗ lực chinh phục các giới hạn.
Myron đã làm tượng của vận động viên Timanthes, chiến thắng tại Olympia năm 456 trước Công Nguyên và của Lycinus, chiến thắng vào năm 448 trước Công Nguyên và năm 444 trước Công Nguyên.
Tổng hợp: Trâm Anh Art
(Nguồn: Woodford, Susan, 1982; Tony Kitto, Clark, Kenneth, 2010; 2005; Ellen E. Perry, 2000; A. Furtwängler, 1907; H. Anne Weis, 1979; Bernard Pyne Grenfell, 1899; C.K. Jenkins, 1926; Deutsche Fotothek, 1953; Marsyas, 2007)
5/5 - (1 bình chọn)
Kích thước:
. Chiều cao: 41 cm . Chiều rộng: 23 cm . Chiều sâu: 17,5 cm
Townley Discobolus là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Myron of Eleutherae (tiếng Hy Lạp cổ đại: ΜύρωΜύρω), (Khoảng 480-440 trước Công nguyên), một nhà điêu khắc người Athens từ giữa Thế kỷ thứ V trước Công Nguyên. Ông được sinh ra ở Eleutherae trên biên giới của Boeotia và Attica. Theo Lịch sử tự nhiên của Pliny, Ageladas of Argos là giáo viên của ông.
Discobolus Palombara (hoặc Lancellotti), bản sao đầu tiên của tác phẩm điêu khắc nổi tiếng này đã được phát hiện và tìm thấy vào năm 1781, tại Villa Palombara trên đồi Esquiline, của gia đình Massimo. Đây là bản sao từ Thế kỷ thứ nhất của tác phẩm điêu khắc bằng đồng nguyên bản của Myron. Ban đầu nó được Giuseppe Angelini khôi phục và Masimo đã đặt nó trong Palazzo Massimo alle Colonne và sau đó tại Palazzo Lancellotti. Nhà khảo cổ học người Ý, ông Jac Battista Visconti đã xác định tác phẩm điêu khắc là bản sao từ bản gốc của Myron. Nó ngay lập tức nổi tiếng, mặc dù Massimo chống lại việc tự do tiếp cận tác phẩm.
Tác phẩm “Diskobolos” của Myron
Năm 1937, Adolf Hitler của nước Đức Quốc xã đã thương lượng để mua nó, và cuối cùng đã thành công vào năm 1938, khi Galeazzo Ciano, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, đại diện chính phủ Ý chấp thuận bán nó cho ông ta với giá năm triệu lire, bất chấp sự phản đối của Giuseppe Bottai, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và cộng đồng học giả nước Ý. Bức tượng được vận chuyển bằng đường sắt đến Munich – nước Đức và được trưng bày trong Glyptothek. Sau Thế chiến II bức tượng đã được trả lại cho nước Ý vào năm 1948. Hiện tác phẩm đang được lưu giữ ở bảo tàng Quốc gia Rome và được trưng bày tại Cung điện Massimo.
Sau khi phát hiện ra Discobolus Palombara, một Discobolus đáng chú ý thứ hai (Townley Discobolus) đã được khai quật tại Biệt thự Hadrian năm 1790, và được mua bởi nhà buôn cổ vật và nghệ thuật người Anh kinh doanh ở Rome, Thomas Jenkins, tại cuộc đấu giá công khai năm 1792. Sau đó, một chuyên gia về đồ cổ người Anh, Charles Townley, đã trả cho Jenkins 400 Bảng Anh để sở hữu bức tượng. Nó đã được đưa đến phòng trưng bày được Townley ủy nhiệm ở Park Street, London, vào năm 1794. (Mặc dù có thể đầu của bức tượng được phục hồi sai, như Richard Payne Knight đã sớm chỉ ra, nhưng Townley đã bị thuyết phục rằng đây là bản sao gốc). Bức tượng sau đó được mua cho Bảo tàng Anh, vào tháng 7 năm 1805.
Một bản sao khác đã được phát hiện vào năm 1906 trong tàn tích của một biệt thự La Mã tại Tor Paterno trong khu đất cũ của hoàng gia Castel Porziano, hiện cũng được bảo tồn trong Bảo tàng Nazionale Romano.
Trong thế kỷ 19, các bản sao của Discobolos có thể được tìm thấy trong nhiều bộ sưu tập học thuật lớn và hiện nay hầu hết đều bị phân tán và thất lạc.
Myron hầu như chỉ điêu khắc với vật liệu đồng và sự nổi tiếng của ông chủ yếu dựa trên các bức tượng về vận động viên, bao gồm cả Discobolus (người ném đĩa). Trong đó ông đã thực hiện một cuộc cách mạng trong điêu khắc bằng cách giới thiệu những tư thế táo bạo với nhịp điệu hoàn hảo cùng những tỷ lệ chính xác và đạt đến mức cao nhất về sự chân thực
Các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, theo Lịch sử tự nhiên của Pliny (34.57-59), là tượng bò cái, chó (canem, Cerberus), Perseus, Satyr, Marsyas, người thổi sáo, Minerva (Athena), Hercules (đã được đặt ở đền thờ dành riêng cho Đại đế Pompey tại Circus Maximus), Discobolus (người ném đĩa) và Apollo. Các nhà văn La Mã thời kỳ đầu luôn đánh giá Myron là một trong những nhà điêu khắc vĩ đại nhất của Hy Lạp.
Các nhà phê bình cổ đại nói về Myron rằng, ông đã thành công một cách đáng ngưỡng mộ trong việc mang lại sự sống và chuyển động cho các nhân vật của mình. Ở tượng Discobolus khuôn mặt của vận động viên ném đĩa bình tĩnh và thư thái nhưng tất cả các cơ bắp của cơ thể anh ta tập trung trong một nỗ lực chinh phục các giới hạn.
Myron đã làm tượng của vận động viên Timanthes, chiến thắng tại Olympia năm 456 trước Công Nguyên và của Lycinus, chiến thắng vào năm 448 trước Công Nguyên và năm 444 trước Công Nguyên.
Tổng hợp: Trâm Anh Art
(Nguồn: Woodford, Susan, 1982; Tony Kitto, Clark, Kenneth, 2010; 2005; Ellen E. Perry, 2000; A. Furtwängler, 1907; H. Anne Weis, 1979; Bernard Pyne Grenfell, 1899; C.K. Jenkins, 1926; Deutsche Fotothek, 1953; Marsyas, 2007)